Đền Trần là một di tích lịch sử, văn hóa ở làng Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Năm 1262 tức năm Nhâm Tuất, vua Trần Thánh Tông trở về quê hương Tức Mặc để bày tiệc lớn thiết đãi dân làng, thăng Tức Mặc trở thành phủ Thiên Trường, tiến hành xây dựng thành đô cùng cung điện nguy nga đồ sộ. Tuy nhiên sau khi nhà Trần suy vong thì các đền đài, cung điện nơi đây trở thành phế tích.
Sau chiến thắng của dân tộc ta trước quân xâm lược nhà Minh, người dân địa phương tưởng nhớ đến công lao của các triều đại vua Trần đã tiến hành tu bổ dựng đền đài để thờ phụng và tổ chức lễ hội hàng năm để tri ân công lao.
Đền Trần ban đầu gọi là nhà thờ Đại tôn. Chỉ đến năm Chính Hòa thứ 15 (tức năm 1695) thì đền mới được xây dựng bằng gỗ lim. Đến năm Ất Dậu năm 1705 được chính thức gọi là Trần Miếu. Năm Tự Đức thứ 5 -1852, trong quá trình tu bổ Trần Miếu lớn hơn thì người dân đào được bia đá khắc dòng chữ ‘ Hưng Đạo thân vương Cố Trạch’ - Nhà của Hưng Đạo Vương ở Cố Trạch. Vì vậy nên đền Cố Trạch thờ Hưng Đạo Vương cùng thân phụ, thân mẫu và phu nhân Trần Hưng Đạo là Thiên Thành công chúa.
Đền Trần gồm có 3 công trình kiến trúc gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền, ta phải qua hệ thống cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là khu đền Thiên Trường. Phía Tây đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, phía Đông là đền Cố Trạch. Cả 3 đều có kiến trúc chung và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa Tiền Đường 5 gian, tòa Trung Đường 5 gian và tòa Chính Tổng 3 gian.
Thời chống quân Nguyên Mông nhà Trần thực hiện chính sách vườn không nhà trống nên rút toàn bộ quân về Thiên Trường. Trong những ngày tháng kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược thì Thiên Trường trở thành căn cứ địa cách mạng của nhà Trần. Cũng trong thời gian này mà ấn cũ của triều đại Trần cũng thất lạc. Mãi đến năm 1822, vua Minh Mạng khi ghé thăm Thiên Trường mới cho khắc lại ấn với dòng chữ ‘ Trần triều điển cố’ (thay cho ấn cũ là ‘Trần triều chi bảo), bên dưới có câu ‘Tích phúc vô cương’.
Lễ khai ấn ở Đền Trần bắt đầu vào khoảng thế kỉ XIII đời nhà Trần vào năm 1239. Đây còn là nghi lễ tổ tiên của dòng họ nhà Trần. Cũng tại Phủ Thiên Trường, các vua Trần tổ chức tiệc chiêu đãi và phong hầu cho các vị quan có công với đất nước. Từ khi giặc Mông xâm lược thì lễ hội bị gián đoạn, đến năm 1269 mới được vua Trần Thánh Tông mở lại.
Từ đó, Lễ khai ấn Đền Trần được diễn ra hàng năm vào rằm tháng Giêng, thường vào ban đêm từ 11h ngày 14/1 đến 1h ngày 15/1. Khai ấn vào thời điểm này mang ý nghĩa như tín hiệu đánh dấu kết thúc những ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc nhở nhân dân tiếp tục công cuộc lao động sản xuất. Ngoài ra, lễ hội đền Trần còn có cả lễ hội lớn được mở vào 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hằng năm với nghi thức lễ rước từ các đền xung quanh về dâng hương và tề tựu ở đền Thiên Trường và Cố Trạch. Khi vào hội, các làng lân cận phải rước kiệu về đền Thiên Trường để tế vua Trần.
Nghi lễ trong lễ hội đền Trần rất thú vị. Trước tiên, nói về nghi lễ khai ấn, các bậc bô lão truyền lại rằng vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, đúng rằm tháng giêng, trước sân đền Thượng tổ chức nghi lễ Khai ấn với sự tham gia của bảy làng: Vọc, Lốc, Hậu Bồi, Bảo Lộc, Kênh, Bái, Tức Mặc. Tại đền Cố Trạch, thế hệ lão ông, lão bà khoác lên mình áo dài khăn xếp cùng dân làng tề tựu đông đủ để tham dự lễ tế thánh rồi dự lễ khai ấn.
Hòm ấn được đặt nghiêm trang trên bàn thờ, trong hòm có 2 con dấu bằng gỗ. Mặt ấn nhỏ khắc chữ ‘ Trần Miếu’; mặt ấn lớn khắc chữ ‘Trần Triều tự điển’ và ‘ Tích phúc vô cương’. Đúng đến giờ Tý thì chủ tế làm lễ ở đền Cố Trạch để xin rước ấn lên kiệu sang đền Thiên Trường, dâng hương cáo thiên địa ở bàn thờ Trung thiên, rước ấn vào nội cung và đặt tại ban công đồng để làm lễ xin khai ấn.
Bồi tế đặt giấy ‘điệp’ trịnh trọng trước chủ tế. Khi chiêng trống vang lên, chủ tế nghiêm trang đóng ấn mực đỏ vào tập giấy điệp, ghi rõ ngày tháng năm để chữ cuối cùng luôn rơi vào chữ sinh trong thứ tự ‘sinh-lão-bệnh-tử’. Theo truyền thuyết, người xin được tờ giấy điệp có đóng ấn đỏ treo về đền, phủ, từ đường hay tại gia đều trừ được ma quỷ, hóa giải rủi ro và điều xấu, thu hút may mắn và thuận lợi trong đường công danh.
Sang đến sáng ngày 15 tháng Giêng thì tại đền Trần tổ chức lễ rước nước. Chủ tế sẽ xin 1 nén nhang ở bát hương Tổ cùng 14 nén ở các bát thờ vua rồi cùng cắm vào bát hương công đồng, đặt trên kiệu bát cống. Đoàn phụ giá sẽ mặc lễ phục cờ biển để phụng nghinh kiệu ra đến cổng đền để tế thiên địa, rồi tiếp tục rước kiệu 3 km ra bến Hữu Bị bên bờ sông Hồng.
Đến bến, chủ tế cầm bình đựng nước đưa xuống thuyền hoa để chèo ra giữa sông trong tiếng chiêng trống rộn vang. Chủ tế múc nước đầy bình thì chèo vào bờ, đặt lên kiệu và rước về đền theo đường cũ. Nước trong bình sẽ được múc ra bát đặt lên các ban thờ để tế nước. Sau khi tế xong thì nước sẽ được ban phát cho con dân họ Trần để uống, ghi nhớ tổ tiên.
Sáng ngày mùng 16 tháng Giêng, lễ tế cá tiếp tục được tổ chức ở đền Thiên Trường. Cá quả và cá chép (ứng với hai vị tổ họ Trần là Trần Kinh và Trần Lý) được đặt trong thúng nước sơn đỏ, đem tế từ sáng sớm tới trưa thì được phóng sinh ra sông Hồng. Bên ngoài sẽ tổ chức trò chơi dân gian cho dân chúng và du khách.
Như vậy, Lễ khai ấn là một tập tục văn hóa mang tính nhân văn để nhà vua tế lễ Trời, Đất, tiên tổ, thể hiện lòng thành kính biết ơn non sông, cha ông dựng nước và giữ nước. Bản chất của bốn chữ khắc trên ấn là ‘Tích phúc vô cương’ mà vua Trần ban cho con cháu là muốn muôn dân lan rộng cái phúc, dạy dỗ trăm họ giữ gìn gia phong, kỉ cương, đạo đức, phải tích phúc cho thật tốt, thật đủ đầy thì mai sau lộc hưởng mới bền vững. Đây là ý nghĩa giáo dục sâu sắc của việc ban ấn mà các vua Trần muốn truyền tụng cho con cháu ngàn đời. Vì vậy đây là ý nghĩa răn dạy vô cùng sâu sắc mà tổ tiên để lại cho con cháu muôn đời.
Nguồn sưu tầm
|